Khởi xướng từ năm 2016, ban đầu có 5 CLB rồi tăng lên 6, có mùa lên 8 nhưng hiện nay, CLB bóng rổ tham dự giải bóng rổ vô địch chuyên nghiệp Việt Nam (VBA) chỉ còn 6 đội. Con đường xây dựng một giải vô địch theo hướng nhà nghề của bóng rổ rất thú vị.
Bóng rổ trước thời điểm VBA ra đời vẫn hoạt động bình thường, chỉ có điều gần như không ai biết đến ngoài những người trong giới. Điều đáng nói là bóng rổ rất phổ biến tại Việt Nam, là một môn tiêu chuẩn ở các trường phổ thông và gần như có thể tìm thấy sân bóng rổ để luyện tập tại bất kỳ trung tâm thể thao nào.
Môn thì phổ biến nhưng giải VĐQG thì èo uột, thế là một nhóm các doanh nghiệp mê bóng rổ Mỹ đã quyết định chung tay tạo ra VBA, cùng các thể thức vận hành tương tự NBA danh tiếng của Mỹ. “Cuộc chơi” lớn ở môn bóng rổ đã mở đường cho chiến lược “xã hội hóa” các giải VĐQG.
Rõ ràng, VBA chứng minh để tạo ra một giải đấu chuyên nghiệp chính thức thì số CLB không quan trọng, cứ đáp ứng đủ tiêu chuẩn là được. Sau đó, cứ dùng biện pháp kỹ thuật để tăng số trận đấu trong mùa lên.
Dù chưa tạo ra một làn sóng đầu tư vào các CLB bóng rổ, nhưng VBA đã cải thiện được hình ảnh của môn này tại Việt Nam. Không ngạc nhiên khi hiện nay, tại các trường học ở những thành phố lớn, các giải bóng rổ cho học sinh với chất lượng cao được tổ chức thường xuyên. Nhiều trường học thậm chí đầu tư cả nhà thi đấu chuyên biệt cho bóng rổ.
Giải VĐQG là nơi tranh tài của các VĐV hàng đầu, vừa là đấu trường thi thố tài năng, tạo nguồn nhân lực cho các đội tuyển quốc gia, vừa là nơi tập trung sự quan tâm của người hâm mộ, đồng thời cũng là thị trường cốt lõi của các hoạt động thương mại thể thao. Nguồn tài chính từ thương quyền và hoạt động thi đấu chiếm tỷ trọng rất lớn trong quá trình phát triển các môn thể thao, nhất là các môn có tính phổ biến cao.
Nhưng ở Việt Nam, được như VBA hay V-League không có nhiều. Người ta luôn thắc mắc về chuyện “tiền đâu để tổ chức”, và rồi chẳng ai bắt tay vào tìm cách trả lời. Trên thực tế, không chỉ có bóng đá, các môn như cầu lông, golf, quần vợt, bóng chuyền … đều có những giai đoạn “chuyển mình” khá mạnh mẽ.
Ví dụ như môn bóng chuyền, giải VĐQG được tổ chức đến 3 giai đoạn, bao gồm 2 lượt đi – về cùng giải đấu Cúp dành cho nhóm các đội mạnh nhất. Các sự kiện được luân phiên đưa về những địa phương “đói” thể thao đỉnh cao để tăng sức hút.
Môn golf phát triển dựa trên hệ thống sân tư nhân khắp cả nước, tự túc được kinh phí dự SEA Games và lần đầu tiên trong lịch sử đoạt HCV ở môn thể thao “quý tộc”, rất tốn kém. Hoặc như môn quần vợt, nếu không xã hội hóa tốt, thì sẽ không có một Lý Hoàng Nam, bởi môn chơi này vốn không phải là thế mạnh đối với thể chất người Việt Nam.
Không thể giải bài toán ngân sách cho thể thao đỉnh cao nếu không tìm ra cách tối ưu hóa, khai thác hiệu quả những khía cạnh liên quan đến tài chính ở hệ thống giải VĐQG. Đây chắc chắn không phải là công việc dễ dàng, nhưng thể thao Việt Nam gần như không còn một chọn lựa nào khác ngoài việc biến những giải VĐQG thành “con gà đẻ trứng vàng” cho chính mình.
Trở lại với chuyện của bóng rổ. Những người tổ chức VBA nhìn thấy được niềm đam mê chơi bóng rổ ở giới trẻ và thay vì chờ đợi phong trào ấy chuyển đổi thành chuyên nghiệp, họ thực hiện luôn một VBA. Cách đầu tư này đương nhiên rất tốn kém, không phải môn nào cũng làm được, nhưng hiệu quả thì dễ đánh đánh giá hơn.
Chúng ta không thiếu các bài học từ những nền thể thao tại châu Á, cũng như tốn không ít ngoại tệ khi mua quyền phát sóng, đưa hàng chục giải đấu đỉnh cao về phục vụ cho người hâm mộ Việt Nam.
Vấn đề quan trọng vẫn là quyết tâm, là cách làm phù hợp, là tư duy mới cho hoạt động tạo nguồn tài chính thay thế cho thói quen chờ đợi ngân sách Nhà nước.